Tác giả bài viết: ThS. Lê Thị Minh Phượng - Khoa Lý luận cơ sở
Trước bối cảnh thế giới, khu vực có nhiều biến đổi phức tạp, khó lường, sự nghiệp đổi mới của nước ta tiến hành trong những năm qua đã đạt nhiều thành tựu quan trọng và có ý nghĩa. Tuy nhiên, đất nước vẫn luôn đứng trước những thuận lợi và khó khăn, cơ hội và thách thức đan xen nhau. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi chúng ta phải biết vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh một cách sáng tạo, vừa nghiên cứu lý luận, vừa tổng kết thực tiễn để tìm ra những luận điểm mới, cách làm mới nhằm giải quyết thành công những vấn đề đang đặt ra cho cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh phong phú và đa dạng, chứa đựng những chân lý bền vững đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam kiểm nghiệm và khẳng định. Trong quá trình đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm sâu sắc, một trong số đó chính là: Đổi mới là sự nghiệp của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; mọi chủ trương chính sách đều phải dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Bài học này chính là sự tổng kết thực tiễn sâu sắc trên cơ sở quán triệt quan điểm “Nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
1. Quan điểm “Nước lấy dân làm gốc” trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Thấm nhuần sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng Nhân dân trong lịch sử, trong tư tưởng chỉ đạo cũng như trong thực tiễn hành động, Hồ Chí Minh luôn luôn đề cao vai trò làm chủ của Nhân dân, quyền lực của dân, luôn tin vào khả năng và sức mạnh của dân, rằng còn dân là còn nước, được lòng dân là được tất cả.
Trong tác phẩm “Đường kách mệnh” (1927), trả lời cho câu hỏi: “Ai là người cách mệnh?”, Người giải thích: “Vì bị áp bức mà sinh ra cách mệnh, cho nên ai mà bị áp bức càng nặng thì lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết. Khi trước tư bản bị phong kiến áp bức cho nên nó cách mệnh. Bây giờ tư bản lại đi áp bức công nông, cho nên công nông là người chủ cách mệnh”[1].
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công bằng sức mạnh của toàn quốc đồng bào “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, đất nước bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”, quyết giữ vững nền độc lập dân tộc và đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Để hoàn thành nhiệm vụ khó khăn, to lớn, nặng nề đó, quan điểm của Hồ Chí Minh là phải thấy hết và khai thác triệt để sức mạnh của Nhân dân. Nước Dân chủ cộng hòa thì Chính phủ và Nhân dân phải đoàn kết thành một khối. Nếu không có Nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng; nếu không có Chính phủ thì Nhân dân không ai dẫn đường. Lực lượng bao nhiêu đều là nhờ dân hết, rằng “có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”[2].
Kế thừa và phát triển tư tưởng “trọng dân” trong truyền thống lịch sử của dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định: Dân là “gốc của nước”, gốc có vững thì cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền Nhân dân. Từ chỗ coi “Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến thắng được lực lượng đó”[3], Người dạy cán bộ: “Quan tâm đến đời sống của quần chúng thì quần chúng sẽ theo ta, ta được lòng dân thì ta không sợ gì cả, nếu không được lòng dân thì ta không thể làm tốt công tác”[4].
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tin tưởng vào sức mạnh và trí tuệ của Nhân dân, Người khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”[5]. Vì vậy, Người chủ trương: “Cách làm là: dựa vào: Lực lượng của dân, Tinh thần của dân, để gây: Hạnh phúc cho dân”[6]. Tin tưởng vào lực lượng và trí tuệ của Nhân dân là một trong những phẩm chất cơ bản của người cộng sản. Trong hoàn cảnh đất nước càng gian khổ thì lại càng phải tin vào khả năng cách mạng, tin vào lực lượng quần chúng Nhân dân.
Tin vào dân, dựa vào dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng phát huy tinh thần làm chủ của Nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của Nhân dân. “Nước lấy dân làm gốc” vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa là bí quyết thắng lợi của mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của Nhân dân và do Nhân dân xây dựng. Nghĩa là phải phát huy tinh thần làm chủ và tinh thần sáng tạo của Nhân dân; Nhân dân phải được tham gia một cách thực tế vào công việc quản lý sản xuất và đời sống của mình; phải tôn trọng, lắng nghe ý kiến của Nhân dân thông qua các tổ chức đoàn thể đại diện như: Quốc hội, Mặt trận tổ quốc, Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội Phụ nữ… Những vấn đề liên quan đến đường lối chính sách, đến cơ chế tổ chức có liên quan đến sinh mệnh, cuộc sống, tương lai hy vọng của hàng chục triệu quần chúng, nếu không có ý kiến của quần chúng, không tập hợp được trí tuệ của quần chúng sẽ không tránh khỏi những hạn chế sai lầm.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn: Phải ra sức thực hành dân chủ, thật sự tôn trọng quyền làm chủ của quần chúng, dân chủ về kinh tế, dân chủ về chính trị. Theo Người “Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến”[7], có dân chủ thì dân mới tin, mới dám nói, mới có sự sáng tạo, do đó mới tạo nên động lực.
Là người đứng đầu Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên giáo dục cán bộ, đảng viên nêu cao tinh thần phục vụ, tinh thần trách nhiệm trước Nhân dân, nghiêm khắc phê phán những biểu hiện vi phạm lợi ích của Nhân dân. Với quan điểm “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, Người luôn xem mình là người phục vụ quần chúng, chịu trách nhiệm trước quần chúng. Người nghiêm khắc phê phán những biểu hiện của tệ quan liêu, xa dân, khinh dân, đặc biệt là thói kiêu ngạo “quan cách mạng”, ra lệnh, ra oai, “không tin dân” để dẫn đến chỗ “dân không tin”, làm hại đến uy tín của Đảng, của Chính phủ.
Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn đau đáu nỗi lòng về chăm lo cuộc sống của Nhân dân. Trong Di chúc của mình, Người đã để lại những lời căn dặn tỉ mỉ về những việc cần làm đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình, đối với cha mẹ, vợ con của thương binh liệt sĩ, đối với chiến sỹ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang và thanh niên xung phong, đối với nông dân, với việc “xây dựng lại thành phố và làng mạc đẹp đẽ”, “phát triển công tác vệ sinh y tế”, “sửa đổi chế độ giáo dục”... nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho Nhân dân.
Chính tư tưởng “Nước lấy dân làm gốc”, yêu thương, kính trọng Nhân dân, luôn tin tưởng vào khả năng, sức mạnh của quần chúng Nhân dân mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vun trồng cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng rộng rãi và vững mạnh, góp phần to lớn làm nên những thắng lợi vẻ vang của cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng “Nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tư tưởng vì Nhân dân, vì con người. Dựa vào dân, tin vào lực lượng, trí tuệ của Nhân dân, chăm lo cho cuộc sống vật chất, tinh thần của Nhân dân là cơ sở tạo nên sức mạnh đoàn kết và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhân dân. Đó cũng chính là nền tảng của công cuộc đổi mới và phát triển mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang lãnh đạo Nhân dân thực hiện.
2. Đảng ta quán triệt quan điểm “Nước lấy dân làm gốc” trong quá trình đổi mới
Sau 35 năm đổi mới, chúng ta giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, một trong những thành tựu đó là nhận thức sâu sắc về lòng dân, sức dân. Hiểu biết kinh nghiệm hàng đầu mà Đảng ta có được là trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân lao động.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 rút ra bài học kinh nghiệm thứ hai: “Sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của Nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với Nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời Nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước”[8].
Tổng kết chặng đường đổi mới 10 năm (1986-1996), Đảng ta rút ra 06 bài học; trong đó, bài học thứ tư là “mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc” và khẳng định: “Cách mạng là sự nghiệp của Nhân dân, vì Nhân dân và do Nhân dân. Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của Nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng”[9].
Bước vào thế kỷ XXI cũng là chặng đường 15 năm đổi mới, Đảng vẫn nhất quán “đổi mới phải dựa vào Nhân dân, vì lợi ích của Nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo”. Thực tiễn 20 năm đổi mới (1986-2006), Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Đổi mới phải vì lợi ích của Nhân dân, dựa vào Nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của Nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới”[10].
Cương lĩnh Bổ sung, phát triển năm 2011 rút ra một trong những bài học kinh nghiệm lớn: “Sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với Nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời Nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”[11].
Cùng với đó, tổng kết 30 năm đổi mới, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII tiếp tục quán triệt sâu sắc bài học kinh nghiệm: “Đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm lấy “dân làm gốc”, vì lợi ích của Nhân dân, dựa vào Nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của Nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân”[12]. Như vậy có thể thấy rằng, trong suốt quá trình lãnh đạo đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn nhất quán quan điểm “sự nghiệp đổi mới phải vì lợi ích của Nhân dân”, xa rời, đi ngược lại lợi ích của Nhân dân, đổi mới sẽ thất bại. Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của Nhân dân nảy sinh từ thực tiễn là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Nhân dân là người làm nên những thành tựu của đổi mới. Đổi mới phải dựa vào Nhân dân, do lòng dân quyết định. Nguồn lực của Nhân dân có nhiều, bao gồm tài dân, sức dân, của dân, quyền dân; song nguồn lực lớn nhất, quan trọng nhất, quyết định nhất là lòng dân, có lòng dân thì có sức dân.
Phát biểu tại Hội nghị toàn quốc triển khai chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng và các văn bản của Trung ương về công tác dân vận, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: Tin ở dân, chăm lo cho dân, lấy dân làm gốc là một bài học lớn được rút ra từ chiều sâu lịch sử đất nước ta. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Bác Hồ và Đảng ta luôn nhận thức sâu sắc vai trò to lớn của Nhân dân, ý nghĩa cực kỳ quan trọng của công tác dân vận, thường xuyên chăm lo xây dựng và củng cố mối liên hệ chặt chẽ với Nhân dân. Chính nhờ thế mà mặc dù với số lượng không đông, Đảng ta vẫn có đủ sức mạnh lãnh đạo cách mạng vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù, dù đó là kẻ thù nguy hiểm và hung bạo nhất. Với sự khẳng định này, Tổng bí thư muốn nhắc nhở các cấp ủy đảng, các cấp chính quyền cần quan tâm hơn nữa, làm tốt hơn nữa công tác dân vận, nâng cao vai trò của Mặt trận và các đoàn thể trong việc giữ vững và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Cần có biện pháp cụ thể và tích cực bảo đảm đời sống Nhân dân, trước hết là bảo đảm việc làm, chăm lo cái ăn, cái mặc, sức khỏe, việc học hành... của Nhân dân; thực hiện nguyên tắc công bằng xã hội, lối sống có văn hóa, bảo đảm an ninh xã hội, an sinh xã hội, an toàn xã hội. Các cấp ủy đảng, các cơ quan Nhà nước cần động viên, tổ chức Nhân dân tham gia rộng rãi và thường xuyên vào các công việc quản lý kinh tế, quản lý xã hội. "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát" phải trở thành khẩu hiệu hành động, thành phương châm công tác vận động quần chúng.
Thế nhưng, thực tế trong đổi mới có hiện tượng “xói mòn lòng tin của Nhân dân đối với Đảng” hay “làm giảm lòng tin của Nhân dân đối với Đảng”. Với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đảng đã chỉ ra: “Vấn đề phai nhạt lý tưởng, sa sút phẩm chất đạo đức cách mạng, quan liêu, tham nhũng, cá nhân chủ nghĩa làm xói mòn lòng tin của Nhân dân đối với Đảng”[13]; “Có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của Nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”[14]; “Một số chính sách chưa đáp ứng nguyện vọng, lợi ích của Nhân dân, nhiều bức xúc chưa được giải quyết; quyền làm chủ của Nhân dân nhiều nơi bị vi phạm, làm giảm lòng tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước”[15]; “Tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng với biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, gây bức xúc trong dư luận, ảnh hưởng đến niềm tin của Nhân dân với Đảng và Nhà nước. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn”.[16]
Đại hội XIII của Đảng diễn ra trong bầu không khí đặc biệt khi cả nước vừa mới trải qua một năm 2020 đầy biến động do thiên tai, dịch bệnh. Đại dịch Covid - 19 đã và đang tác động sâu rộng tới mọi phương diện của đời sống kinh tế - xã hội toàn cầu. Bối cảnh trong nước và quốc tế đan xen nhiều khó khăn, thuận lợi, song bằng nỗ lực và ý chí quyết tâm cao, phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sự ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, sự tham gia đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đồng lòng ủng hộ của nhân dân, chúng ta đã từng bước kiểm soát thành công đại dịch COVID-19; từng bước phục hồi sản xuất kinh doanh; ổn định đời sống, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; khẳng định bản lĩnh, ý chí, truyền thống tốt đẹp của Nhân dân ta, dân tộc ta.
Từ nhận thức sâu sắc thực tiễn ấy, càng phải củng cố vững chắc lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với Nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với Nhân dân, được lòng dân. Muốn được lòng dân, có lòng dân thì toàn bộ hoạt động của Đảng cũng như mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân, nhằm vào mục đích vì lợi ích của Nhân dân. Thực hiện đầy đủ, có chất lượng quyền và nghĩa vụ công dân, đặc biệt không chỉ là tôn trọng mà phải tạo cơ chế để dân phát huy đầy đủ, có hiệu quả quyền làm chủ của mình. Tập trung giải quyết bức xúc, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân liên quan đến lợi ích, đời sống, việc làm; chống tham nhũng, lãng phí; xử lý nghiêm những tiêu cực… Có như vậy, chắc chắn chúng ta sẽ góp phần tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ, tích cực và tiến bộ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từng bước hiện thực hoá mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhân dân ta đã lựa chọn và kiên định.
[1] Hồ Chí Minh toàn tập (2011), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, Tập 2, tr. 288.
[2] Sđd, Tập 5, tr.335
[3] Sđd, Tập 4, tr.19
[4] Viện Khoa học Công an, Chủ tịch Hồ Chí Minh với Công an Nhân dân. 1980, tr.63
[5] Sđd, Tập 10, tr.453
[6] Sđd, Tập 5, tr.556
[7] Sđd, Tập 5, tr.284
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.5
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.73
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.19
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.9
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.69
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr.16.
[14] Đảng Cộng sản Việt nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr.21-22
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013, tr.38
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.44